Nói chính xác là nước Nguỵ đã từng có biến, thậm chí là biến cố cực kỳ quan trọng,
chính là thiên đoạn Tào Tháo chết, Tào Phi "bỏ Hiến Đế cướp vận Viêm
Lưu". Nhưng, vì những lý do này khác, Khổng Minh nói riêng và nước Thục
nói chung không tận dụng được biến cố ấy để tạo bước đột phá mới.
Cơ hội ngàn vàng đã qua khó lòng trở lại nữa, nhưng Khổng Minh cũng không thể
thở than rồi treo ấn gói vàng về quê cày ruộng như xưa. Ra quân Lương Châu, mon
men Trường An…là nước cờ hợp lý, mà nếu trời cho lấy được Trường An, cũng không
phải không khiến nước Nguỵ thêm một lần chấn động, thậm chí ít nhất là mất nửa
giang sơn. Nếu được thế, thì ai biết mệnh trời về đâu?
Nhiều nhà phần tích cho rằng: “Con người phải thích ứng
với hoàn cảnh. Thời thế đổi thay thì tư duy phải đổi thay”. Khổng Minh tất biết
rất rõ rằng phương lược của Long Trung Sách cũ trước đây rất khó thực hiện,
song vẫn có ý đồ thực hiện (nếu có thể tận dụng – như việc lôi kéo Mạnh Đạt ở
Tân Thành, như việc kết hợp xuất binh cùng với Đông Ngô ở lần xuất binh cuối
cùng trong đời Khổng Minh). Mặt khác thì Thục mất Kinh Châu, mất một nơi đông
dân giàu có với vị trí chiến lược rất tốt. Vậy để tăng cường thực lực của mình
phải làm sao? Tất nhiên cần có thêm một châu quận nữa để tăng cường thực lực của
mình. Và cái đích nhằm đến của Khổng Minh là Lương Châu, đó chính là sự thay đổi
hết sức hợp lý và sáng suốt. Vì sao lại là Lương Châu? Cái này thì dễ hiểu và
đơn giản là Lương Châu vẫn là nơi nước Nguỵ chiếm sau cùng, dân ở đấy đa phần
là người Khương, Đê, Nhung, mà mối quan hệ của các bộ lạc này với Thục có phần
gần gũi hơn với Nguỵ. Xem suốt thời Tam Quốc thì duy nhất có lần người Khương
chống Thục. Cho đến tận thời Khương Duy cũng vẫn liên kết với Khương tộc để chống
Nguỵ đủ thấy rõ điều này. Mà Mã Siêu, Mã Đại là tướng Thục xuất thân từ đây. Chưa kể đến việc các bộ tộc Lương Châu từng là quân dân dưới thời Mã Đằng, Mã
Siêu chống nhau với Nguỵ suốt một thời gian dài. Người Lương Châu có sự thù hận
với Tào Tháo không ít. Nếu xét đến lòng trung với chính quyền trên khắp đất Nguỵ
thì đích xác Lương Châu nơi dễ có vấn đề nhất. Quả thật nếu Khổng Minh giải quyết
được Lương Châu, chiếm cứ cựu kinh Tràng An thì cũng chưa biết đại thế thiên hạ
ra sao.
Khổng Minh rất thực tiễn trong việc xuất binh phạt Nguỵ nhằm hướng Lương Châu với ý đồ mở mang bờ cõi, tằm ăn lá dâu, từng bước chầm chậm để đi xa. Lại nhớ đến câu đối ở lều cỏ Ngoa Long Cương của Khổng Minh rằng: “Đạm bạc dĩ minh trí, Ninh tĩnh nhi chí viễn”.
Nói một cách chính xác, hoàn cảnh của Gia Cát Lượng cũng
khó mà trông cậy vào binh pháp Tôn Tử. bởi vì trước bác Lượng chưa có ông Tể Tướng
nào phải nhận (và đúng hơn là đề ra cho mình) một nhiệm vụ khó khăn đến thế, tức
là phản Tào phục Hán. Tôn Tử giúp Hạp Lư đưa nước Ngô xưng Bá, cũng chỉ là cày
nát kinh thành nước Sở mà chưa từng chiếm đất. Điền Đan đánh Yên giúp Tề phục
quốc chẳng qua cũng chỉ là thu phục lại một khoảnh Sơn Đông. Lưu Tú (Quang Vũ Đế)
dựng lại nhà Hán được cũng là do Vương Mãng quá thất nhân tâm. Chưa từng có ai
như Khổng Minh Minh phải ngồi giữ một góc Tây Nam, ít ngoại viện, thực lực yếu
mà vẫn mong thanh toán Trung Nguyên, đặc biệt là phải đối đầu với một nhà Tào
khí thế đang vượng, cơ đồ đã vững như bàn thạch thời ấy.
Cái nỗi khổ ấy thì Tôn Tử cũng chưa từng trải qua nên binh pháp chả đề cập, và
khi không có tiền lệ, Khổng Minh Minh vẫn phải bắt buộc chọn một con đường để
đi. Ai bảo Bác Lượng sinh ra là tử đệ của phái Thanh Lưu, nên cứ phải ôm mộng đội
đá vá trời mà hưng Hán? Phải như người khác thì mặc kệ, cứ giữ một xó Ích Châu
đấy cũng đã đủ phú quý tột bực. Đường Thục lại xa xôi hiểm trở, dễ thủ khó
công, không dễ mà mất được. Người Việt Nam mình vẫn nói: Đầu gà hơn đuôi voi
mà!
Ra quân đánh Nguỵ dĩ nhiên là trái đạo lý của binh pháp Tôn Tử, đặc biệt là cái
đạo lý khởi điểm: "Chưa chắc thắng thì không nên tấn công". Nhưng nếu
đợi đến lúc Thục chắc thắng được Nguỵ, e là mộ mả Khổng Minh Minh đã xanh cỏ
lâu rồi. Vả chăng, càng để lâu thì thế nhà Tào càng vững, càng khó lay chuyển
được nên cứ có dịp là tranh thủ Bắc phạt???.
Thêm vào đó, chắc ý của bác Lượng cho rằng: đánh Nguỵ là vấn đề chiến lược, là
liên tục quấy rối sự ổn định của một đại cường, là liên tục nhắc nhở nhân sĩ
Trung Nguyên rằng thì là hương hoả nhà Hán vẫn còn đây này. Đồng thời, liên tục
bắt nhà Nguỵ phải chịu một sức ép quân sự không nhỏ, cũng là liên tục tìm kiếm
cơ hội tạo nên đột biến trong đại cục nữa.
Vì một số lý do nêu trên, dù chỉ với vài phần trăm thắng thôi thì bác Khổng
Minh vẫn cứ ra quân phạt Nguỵ, vì "trường kỳ phạt Nguỵ nhất định thắng lợi"
là chiến lược mấu chốt của bác ấy.
Phạt Tào hưng Hán là chiêu bài độc quyền của nhà Thục.
Dù liên kết với Đông Ngô nhưng bụng dạ bên Ngô thế nào làm gì mà Thừa tướng
không biết? Dù Ngô có đem quân vượt Trường Giang cũng lại múa may một chút rồi
khua chiêng thu quân thôi. Thuỷ quân Ngô lên đồng bằng thì làm gì còn thiện chiến?
Hơn nữa, mô đen sở trường của anh Tôn Râu Ngô là toạ sơn quan hổ đấu, bóng đá
phòng ngự phản công cơ, ít khi cống hiến hết mình lắm!
Rõ ràng là người Nguỵ có ý giữ chặt Tràng An, thủ hiểm giữ vững, quân viễn
chinh nếu tấn công Tràng An có cơ hội thành công không? E rằng không! Cựu đô
Tràng An thành cao hào sâu, lương nhiều binh lắm, ba quân khắp các xứ Ung Lương
có thể kéo về, chưa cần cộng thêm viện binh từ Uyển Lạc tiến sang cũng đã trầy
trật lắm rồi.
Vậy thì kế của Khổng Minh là thế nào? Chính là “ra nơi không phòng bị” vậy. Chẳng
là cao tay sao? Tiến đến Kỳ Sơn, thẳng ra Lũng Hữu, mưu đồ Lương Châu, sau đó
nếu thuận lợi sẽ dấy quân Hán Trung, uy hiếp Quan Trung làm Nguỵ quốc phải chấn
động, lúc đó mới mưu đồ đến Tràng An.
Binh lực ít như Thục mà muốn đánh vỗ mặt nước Nguỵ thì không thể được, chỉ còn
cách đánh lấn từ từ. Quân lương là một yếu tố vô cùng quan trọng trong chiến
tranh vào thời xưa, kể cả nay. Ờ, mà bộ đội ta đánh Mỹ ngày xưa toàn ăn rau rừng
với gạo rang và các loại củ quả hái lượm đào bới đâu đó, thế mà thắng địch. Quả
là sợ. Quân Thục ít hơn Nguỵ, buộc phải dùng chiến thuật đánh chắc, chầm chậm cưỡng
bức, tiến một bước, là đi được một đoạn đường, ấy là chuẩn xác. Tuy nhiên
phương án này có một nhược điểm rất lớn là ‘hao tổn binh lương’. Đối với đạo
quân viễn chinh mà nói, điều đó thật không thú vị chút nào. Vậy phải làm sao khắc
phục nhược điểm đó nhỉ? Tất phải giải quyết bằng “tốc chiến tốc thắng”. Vậy thì
chiến lược là đánh lấn chầm chậm nhưng xuất binh tấn công lại phải nhanh chóng,
giải quyết gọn ghẽ và dứt điểm, tránh dây dưa ngày tháng. Ấy là sách lược mấu
chốt vậy.
Những chuyện Khổng Minh lập mưu kỳ ảo đánh lừa mấy tướng Nguỵ, để họ nghi ngờ
mà cấu xé lẫn nhau, rồi anh Duy bày trận giữa đêm khuya tạo thành ngọn lửa chạy
dài hình con trăn con rắn làm Khổng Minh với anh Triệu khen nức nở về tài cầm
binh với lại kiểu múa thương rất lạ. Toàn là chuyện vẽ của cụ tác giả La Quán
Trung.
Được cái những đoạn Khổng Minh khen Bá Ước dưới ngòi bút cụ La, cũng không khác
chính sử lắm. Trừ có cái câu "ta được Bá Ước như được con phượng, thả Hạ Hầu
Mậu như thả con vịt" là hơi bơm thổi kiểu truyền thông, chứ đại khái thì
"Bá Ước hiếu học, có mẫn cảm quân sự, thật là kẻ sĩ đất Lương
Châu"...chắc cũng không đến nỗi xa lắm với "Ta từ khi rời lều cỏ vẫn
muốn tìm người hiền để truyền lại sở học, nay mới gặp được Bá Ước"...
Lại điểm chút về Hạ Hầu Mậu. Nghe đồn tay phò mã này cũng không đến nỗi ngu hèn
bần tiện lắm như cụ La Quán Trung dầm đầu xuống cống, nhưng phải cái là chuyên
về văn chương thi từ chứ không phải tay chiến tướng kiệt hiệt như cha ngày xưa.
Bây giơ nói tiếp sang chuyện dùng người
Lần đem quân ra Kỳ Sơn lần đầu tiên đúng là lần hoàn hảo nhất, có ưu thế nhất.
Nếu mà không để mất Nhai Đình, giữ vững Lương Châu làm thế rình mồi chờ xơi tái
anh Mậu ở Trường An thì không biết cục diện sau này sẽ đi đến đâu. Cái này cũng
phải nói là khí số nhà Hán đã tận, văn thần võ tướng người chết người hàng giặc
làm lực lượng nhà Thục mỏng manh, không đủ sức chiếm lại đất đai, trùng hưng
nhà Hán vậy. Một phần nữa cũng phải kể công Lưu Thiện hậu chúa quá ngu muội làm
cho nhiều nhân tài khinh thường mà không theo về phụng sự. Một mình Khổng Minh
“dã tràng” xe cát năm tháng trôi qua, đến lúc gió thổi sao rơi bên Gò Ngũ Trượng
cũng chẳng dựng lại được cơ nghiệp Hán thất năm nào. Cảm khái thay!
Vì "lạc cực sinh bi", cũng có! Vì vận Hán đã hết, chắc chắn có (các nhân tài chính trị như Tưởng Uyển, Đổng Doãn, Phí Vĩ, Quách Du Chi chẳng ai được thọ)! Mà vì Khổng Minh chết sớm quá, chưa kịp chuẩn bị hậu sự kỹ lưỡng
Cũng đành!
Giá như Khổng Minh cai trị thời bấy giờ thì bên trong
sẽ ra sức bồi dưỡng nhân tài, khuyến khích phát triển nông nghiệp (cả công nghiệp
nặng nữa), về quân đội thì giữ ít quân nhưng tinh nhuệ, thường xuyên cho những
tướng sỹ biên ải tập kích những trận nhỏ, quấy nhiễu biên giới nước Nguỵ. Bên
ngoài thì dùng tiền bạc, ngoại giao, phản gián mua chuộc những quan quân có thể
lực, tạo cảm giác hòa bình giả tạo cho vua chúa nước Nguỵ, vua tôi lao vào ăn
chơi, nghi kỵ lẫn nhau.
Nhất là cái lúc Tư Mã Ý bị mất chức, Khổng Minh không nên đánh Ngụy vội mà tìm
cách khích cha con Tư Mã Ý hoặc mua chuộc những viên tham quan bên cạnh Tào Tuấn
làm phát biểu tình, cho nó vài lá đơn tố cáo nặc danh cho Tư Mã Ý lỡ tàu không vào nhóm chóp bu đại thần thác cô được... chắc chắn là có hiệu quả hơn.
Khổng Minh là người tài, Nhưng cái tài được La Quán
Trung tác động vẽ lên khiến người đọc đánh giá bác Lượng như ma quỷ, thần sầu.
Độc giả mới đọc Tam Quốc thì tin cụ La sái cổ, cứ nghĩ Khổng Minh có thể hô
phong hoán vũ, thay thời đổi thế thời được thật, đọc đến đâu nhập hồn đến đấy. Ngay đến
ông Kim Thánh Thán xưa cũng bình truyện Tam Quốc cũng phê phán cụ La Quán Trung vụ xây dựng
điển hình tiên tiến này mãi!
Ở vào địa vị Khổng Minh, cầm đại quyền trong cái bối cảnh
đó, tướng giỏi chết gần hết, sĩ khí sụt tan tành sau trận Hào Đình, đất tuy có
tiếng là "kho trời" nhưng thực chất chỉ được 1/9 châu mà vẫn muốn mưu
đồ Trung Nguyên, nếu không chơi bài ngoại giao, không cầu đến ngoại viện thì sụp
đổ cơ nghiệp chỉ con là thời gian…
Giả như cụ Lượng cam tâm chỉ làm một nước nhỏ ngoài biên địa, không ôm mộng phục
Hán, nghĩa là không giữ cái khí cốt không đổi của danh sĩ phái Thanh Lưu thì dễ
thôi, cứ đình binh thủ hiểm, an nhàn dưới một người trên vạn người, đâu đến nỗi
phải lao tâm khổ tứ đến chết tức tưởi ở Gò Ngũ Trượng.
Đọc hết ngần ấy tập Tam Quốc, từ lều cỏ ra đi, Khổng Minh đã giúp Lưu Bị từ chỗ
không tấc đất cắm dùi thành ông vua nước Thục. Song, chỉ với ba sai lầm trong
việc nhìn người, dùng người mà cơ đồ nhà Thục tiêu vong.
Có người than rằng: cơ đồ nhà Thục do một tay Khổng Minh dựng nên và cũng một tay ông hất đổ đi.
Nói đến dùng người và nhìn người, có lẽ, trong Tam Quốc và cả trước đó là Đông Chu Liệt Quốc, Ước Mơ Nhỏ cũng nên có một bài bình về cách nhỉn và cách dùng người. Tại Sao cũng là tiếm Hán mà Tào A Man thì tiếm ngon mà Đổng Trác thì chết tức? Sao ông Lưu Bán Dép dù lúc long đong vẫn có nhiều trung thần dũng tướng bên cạnh? Sao bác Bách Lý Hề dù rất giỏi nhưng cũng chỉ giá trị ngang trăm bộ da dê? Sao quan Phạm Lãi khi phò Câu Tiễn nước Việt thành công thì lại tìm đường đi ở ẩn???
Xin đọc bài tiếp theo
- 21/05/2014 02:33 - Hai đầu của thế giới phẳng ( Tiếp phần 4 - Truyện Phim)
- 14/05/2014 11:46 - Hai đầu của thế giới phẳng ( Tiếp phần 3 - Truyện Phim)
- 14/05/2014 08:29 - Hai đầu của thế giới phẳng ( Tiếp Truyện Phim)
- 01/04/2014 08:04 - bình Tam Quốc bài 28: Cười và khóc và...kết thúc
- 25/03/2014 23:13 - Bình Tam Quốc bài 27: Bình về Nhìn người và dùng người
- 23/03/2014 13:00 - Bình tam quốc bài 25: về Bắc Phạt 5 lần ra Kỳ Sơn của nhà Thục
- 21/03/2014 22:17 - bình tam quốc bài 24: Nói thêm về Gạt lệ chém mã Tốc
- 01/03/2014 01:24 - Bình tam quốc bài 23: Tường thuật trận Nhai Đình và bình luận tướng sĩ
- 28/02/2014 09:22 - Bình tam quốc bài 22: Phiến loạn Nam Trung hay Thất cầm Mạnh Hoạch
- 22/02/2014 05:22 - Bình Tam Quốc bài 21: Ngô-Thục như trẻ trâu và Lưu Bị Thác Cô