Điển Vi
là một viên tướng sống vào cuối đời nhà Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử
Trung Quốc. Điển Vi là hộ vệ tin tưởng nhất của Tào Tháo
Điển Vi quê ở Trần Lưu, theo lời kêu gọi tham gia quân đội của thái thú Trương
Mạc, nhưng vì lỡ tay giết người nên phải bỏ trốn. Điển Vi được Hạ Hầu Đôn tiến
cử cho Tào Tháo. Tào Tháo thấy Vi sức khỏe phi thường nên cho làm chức Trướng
tiền đô úy, cho đi theo bảo vệ Tháo. Sau đó, Vi lập được nhiều công trạng nên
được Tào Tháo rất tin tưởng.
Hoa Đà tự là Nguyên Hóa, là một vị lương y nổi tiếng thời Đông Hán
trong lịch sử Trung Hoa, được xem như thần y. Ông được xem là một trong những
ông tổ của Đông Y. Hoa Đà là người ở huyện Tiêu, nước Bái thuộc Dự châu, là đồng
hương của Tào Tháo.
Hoa Đà nổi tiếng là thầy thuốc giỏi. Ông
từng chữa cho nhiều danh tướng như Chu Thái ở Đông Ngô, Vân Trường nhà Thục Hán…
Tào Tháo đã mắc bệnh đau đầu
trong nhiều năm, sai người triệu ông đến chữa trị. Do thuốc của Hoa Đà hiệu
nghiệm, ông được giữ lại trong quân Tào Tháo một thời gian. Những lúc bị đau,
Tào Tháo nhờ Hoa Đà châm cứu cho một vài mũi kim thì bệnh tình đỡ đi nhiều.
Sau này Tào Tháo có người nhà mắc bệnh, lại gọi Hoa Đà tới chữa. Được một thời
gian chưa xong, Hoa Đà xin về nhà thăm vợ có bệnh, lại xin nghỉ thêm ít lâu nữa.
Tào Tháo nghi ngờ, sai người đến dò xét thì thấy vợ Hoa Đà không có bệnh gì,
bèn hạ lệnh bắt Hoa Đà vào ngục hỏi tội. Bị ngục lại tra tấn, Hoa Đà chết trong
ngục.
Năm 234, Gia Cát Lượng qua đời thì Khương Duy thay thầy nắm giữ trọng trách quân sự, là trụ cột cuối cùng giữ vững cho giang sơn Thục Hán. Từ năm 247, Khương Duy liên tiếp tiến hành các cuộc Bắc phạt với mục đích kế thừa di nguyện của ân sư. Do nhiều nguyên nhân, những cuộc bắc phạt đó ko có thành công lớn nhưng ít ra Khương Duy cũng đã khiến cho kẻ địch phải dè chừng, nhà Thục vẫn còn an toàn.
Ngụy Diên tự là Văn Trường là một tướng của Thục Hán trong thời kỳ Tam
Quốc của lịch sử Trung Hoa. Năm 211, Ngụy Diên cùng tham gia chiến dịch của Lưu
Bị đánh Ích Châu (ngày nay là tỉnh Tứ Xuyên và thành phố Trùng Khánh thuộc Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa). Tài năng của Ngụy Diên đã giúp ông được trọng dụng và
trở thành một trong những vị tướng trụ cột Lưu Bị. Lưu Bị đã phong Ngụy Diên là
Thái thú Hán Trung năm 219.
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, Ngụy Diên được mô tả là một tướng thường mang lòng phản
trắc, phản chủ cầu vinh. Lúc Gia Cát Lượng qua đời, Ngụy Diên tạo phản nhưng đã
bị Mã Đại và Dương Nghi giết chết theo kế của Gia Cát Lượng trước khi mất đã
truyền cho.
Mã Đại là
một vị tướng của nước Thục. Trước đó, Mã Đại là một tướng dưới quyền của chú
mình là Mã Đằng và sau đó là Mã Siêu, con trai cả của Mã Đằng, sau khi trải qua
nhiều bôn ba, cuối cùng ông đã cùng với chủ của mình là Mã Siêu đầu quân cho
Lưu Bị, phục vụ cho nhà Thục. Mã Đại là một vị tướng được Gia Cát Lượng tin
tưởng, ông thường được giao những nhiệm vụ quan trọng trong các cuộc viễn chinh
của nhà Thục (cùng với Triệu Vân và Ngụy Diên). Trước khi Mã Siêu chết có dặn
dò, nhờ cậy Lưu Bị chăm sóc, giúp đỡ cho Mã Đại vì đây là nhân vật cuối cùng
khói nhang cúng giỗ trong gia tộc họ Mã. Mã Đại luôn được sự tín nhiệm của
triều đình nhà Thục, bản thân ông cũng là vị tướng có uy tín trong quân đội
Thục, đã đóng góp nhiều công lao cho nhà Thục.
Hoàng Cái tự Công Phúc, là vị tướng quân đội của nhà Đông Ngô trong lịch sử Tam Quốc. Ông phục vụ cho cả 3 đời lãnh đạo Đông Ngô là Tôn Kiên, Tôn Sách và Tôn Quyền. Hoàng Cái nổi tiếng qua chiến công khổ nhục kế, trá hàng đốt chiến thuyền của quân Tào Tháo trong trận Xích Bích góp phần quan trọng cho thắng lợi của quân Đông Ngô vào năm 208.
Trương Phi tự là Ích Đức, hay thường được gọi là Dực Đức, người Trác Quận (nay là Trác Châu, địa cấp thị Bảo Định, tỉnh Hà Bắc). Khúc mức nhứt là khúc chua choét về ông Phi lúc hội bàn đào. Khúc ghê răng nhứt là khúc ông Phi gân cổ hét hậu quả sập cầu Tràng Bản. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh. Trong trận ấy, viên quan theo hầu Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt đã hoảng sợ đến mức vỡ mật mà chết.
Nhưng khúc oai nhứt của ông Phi không phải là lúc thu phục… mà khúc oánh nhau với Trương Cáp.Tam Quốc diễn nghĩa mô tả trận này Trương Phi sai người tung tin ông say rượu trong trướng, để hình người nộm để dụ Trương Cáp vào cướp trại rồi đổ phục binh đánh bại Trương Cáp. Trương Phi thắng trận, cho dựng một tấm bia trên sườn núi Đãng Cừ, tự tay viết văn bia, lời lẽ rất hùng tráng và hơi chảnh:
Tướng quân nhà Hán là Phi, suất lãnh một vạn tinh binh đại phá đầu sỏ của giặc là Trương Cáp ở Đãng Cừ, dừng ngựa dựng bia
Ngoài ra, ông là một trong 2 tướng đã từng đơn độc giao chiến với Lã Bố mà chưa bị thua chạy hoặc bị giết (người còn lại là Hứa Chử). Trong trận Hổ Lao, để cứu Công Tôn Toản, ông đã đấu với Lã Bố hơn 50 hiệp bất phân thắng bại trước khi Quan Vũ và Lưu Bị ra trợ chiến. Tổng cộng Phi đã đấu với Bố 2 trận, tất cả gần 150 hiệp và đều bất phân thắng bại (trong khi Hứa Chử chỉ giao chiến với Lã Bố được 20 hiệp bất phân thắng bại trước khi Tào Tháo sai 5 tướng khác ra trợ chiến)
La tiên sinh trong TQDN mô tả Túc như là một người thật thà, nhu nhược, không
có chủ kiến, hay bị Gia Cát xỏ mũi. Song thực tế lịch sử lại khác hoàn toàn,
Túc là người cực kỳ cao ngạo, giầu mưu lược, có khả năng chính trị cao độ, biết
phân tích đại cục thấu đáo, là nhà quân sự, chính trị lỗi lạc phi thường bậc nhất
xứ Giang Đông thời ấy.
Chu Du, Tự là Công Cẩn, người Lư Giang đất Ngô, tổ phụ là Chu Cảnh từng làm chức Thái uý dưới triều Đông Hán, bố là Chu Dị làm huyện lệnh huyện Lạc Dương, sau từ quan. TQC chép: "Chu Du thân thể cao lớn, hình dung tuấn tú, tính tình rất cởi mở rộng rãi, phong lưu lỗi lạc, rất được bạn bè vị nể. Khi Du còn trẻ đã tinh thông âm luật."
Khi Tôn Sách sắp mất, có căn dặn lại Tôn Quyền rằng: “Việc quyết kế quốc gia đại sự rất đáng phải hỏi ý kiến quần thần, việc trong không quyết nên hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết nên hỏi Chu Công Cẩn", từ đó có thể thấy rằng, trước mối đe doạ lớn từ phương Bắc, Chu Du có tầm quan trọng lớn lao đến thế nào. Trong Ước Mơ Nhỏ, chúng ta sẽ lặp lại Chu Du nhiều lần nữa với tài của anh này trong trận Xích Bích và một số vụ việc khác. Nguyên món anh này cua được em gái Tiểu Kiều – đệ nhị nhan sắc Giang Đông cũng đủ nói lên tài tán gái của sếp xuất sắc cỡ nào. Thật tiếc, trong sử Tàu và trong Tam Quốc không ghi lại chút gì chuyện tìm hiểu, chuyện yêu đương của bác Chu Công Cẩn. Chỉ có vài giai thoại giễu giễu như kiểu Tiểu Kiều đến gặp Hoa Đà bác sĩ để xin thuốc tăng lực cho chồng và có hiệu nghiệm. Tuy nhiên, ghép giai thoại ấy vào người sắp về thế giới bên kia mà thổ huyết như anh Du thì hơi bất nhẫn. Xin phép không kể ra đây!
Bàng Thống, tự Sỹ Nguyên, người xứ
Tương Dương, là cháu của Bàng Đức Công người nổi tiếng nhất họ Bàng, một trong
những người có danh tiếng nhất trong các danh sỹ Kinh Tương thời Lưu Biểu.
Bàng Thống lớn hơn Gia Cát Lượng 3 tuổi, là người có những cá tính dị biệt,
đánh giá sơ bộ thì thấy có những nét trái ngược hẳn với con người của Gia Cát.
Khổng Minh cao lớn, anh tuấn, tính khí cao ngạo, song xử sự rất điềm đạm, giữ lễ;
còn ông Thống thì thấp lùn, đen nhẻm, dáng vẻ thô lậu, rất hào phóng, không chịu
ràng buộc, thường làm những việc không đáng làm khiến người khác khó hiểu, lại
thường có những lời đại ngôn khiến người xung quanh thấy khó chịu. Giới sỹ Kinh
Tương lúc bấy giờ cũng chỉ biết Thống là cháu Bàng Đức Công mà tỏ ra tôn trọng
chứ thực sự rất ít người biết được tài hoa phi phàm của Bàng Thống, trừ có một
người, đó là Thuỷ Kính tiên sinh – Tư Mã Huy.
Khi tuổi còn trẻ, Thống có vẻ “đại trí như ngu”, dưới cái vẻ ngoài chẳng có gì
đặc biệt, kèm theo đó là cái cung cách có vẻ rất cuồng vọng song lại ẩn chứa
sau đó là cả một trí tuệ siêu phàm.
Lúc chiến loạn lan tràn khắp vùng Dĩnh Xuyên, đại lão phái Thảo dã là Bàng Đức
Công đã mấy lần mời Tư Mã Huy rời quê quán đến Nam Dương lánh nạn, song Tư Mã
Huy vẫn do dự không muốn. Bàng Thống khi ấy mới 20 tuổi, đặc biệt ưa thích và
hâm mộ danh tiếng của Thuỷ Kính tiên sinh nên đã mấy lần chẳng ngại đường xá xa
xôi nghìn dặm, đến tận Dĩnh Xuyên bái kiến Tư Mã Huy. Lần đầu Thống đến, Thuỷ
Kính tiên sinh đang hái dâu ngoài vườn, chẳng để ý gì đến Thống, Thống cũng chẳng
câu nệ, ngồi ngay xuống dưới gốc dâu nói chuyện huyên thuyên, từ lúc giữa buổi
đến tận chiều tối mịt tựa hồ nói chẳng hết chuyện. Thuỷ Kính tiên sinh thấy người
trẻ tuổi nói năng mạch lạc, bàn đến những chuyện đại sự, tỏ vẻ rất am hiểu, giỏi
giang, học vấn uyên bác thì lấy làm lạ, tỏ lòng ngưỡng mộ, khen ngợi là danh sỹ
hàng đầu đất Nam Dương, gọi là Phượng Sồ.
Trong biến loạn Kinh Tương, Thống làm một chức quan nhỏ, trông coi việc văn thư
và pháp lệnh ở Nam Quận. Thống thường lười nhác, tư lự hàng giờ, rất ít để ý đến
việc thế tục, hàng ngày lại lấy việc chè rượu ăn nhậu làm thú tiêu khiển, chỉ
làm việc quấy quá cho xong. Mỗi khi có việc, Thống thường thao thao bất tuyệt,
diễn thuyết dài dòng, bàn luận đến những việc đâu đâu, vượt quá cả chức phận của
một viên mọn quan, vì thế hay bị người xung quanh chế nhạo, song Thống chẳng lấy
thế làm tức giận hay phiền não, chỉ thản nhiên bảo: "Nay là lúc thiên hạ đại
loạn, đạo lý chân chính chẳng thấy đâu, người tốt thì ít, kẻ ác quá nhiều. Tôi
muốn nêu rõ đạo lý trước phong tục để mọi người cùng xem trọng mà theo, vì thế
mà phải bàn đến những điều đặc biệt với người khác. Nếu người nghe để tâm đến
thì lĩnh hội được nhiều, không để tâm mấy thì lĩnh hội được ít, như thế tôi nói
10 việc, giữa chừng rơi rụng mất 5 việc cũng vẫn còn đọng được một nửa, đủ để đề
cao giáo hoá xã hội, khiến cho kẻ có chí được khích lệ, chẳng phải là việc rất
nên làm ư?".
Chu Du làm thái thú Nam Quận, để ý đến tài hoa của Thống, rất coi trọng, bổ nhiệm
làm bí thư cơ yếu. Từ đó có nhiều danh sỹ Giang Đông được biết đến tài nghệ của
Thống, thường hay cùng Thống đàm luận chuyện thế sự, việc đời… Trong số đó có Lục
Tích, Cố Thiệu, Toàn Tông. Điểm đặc biệt của Thống là tuy lỗ mãng, đại ngôn,
song lại rất chân thành, vì thế đôi khi có việc rất nhỏ, nhưng cũng làm Thống
cáu giận.
Có lần các danh sỹ Giang Đông ở Nam Quận ngồi nói chuyện với Thống, có người
trêu Thống rằng:
- Xem chừng so với ba vị Cố, Lục, Toàn thì Sỹ Nguyên thật không bằng.
Thống cả cười nói:
- Lục tiên sinh giống như con kiêu mã, cá tính phiêu lãng, chí ở nghìn năm,
nhưng kiêu mã tuy kiêu ngạo mà chí hướng chỉ đủ dùng cho một mình mình. Cố tiên
sinh thì như con trâu mộng, kéo xe nặng mà lại đi xa, nhưng dẫu đi ngày 300 dặm
cũng chỉ đủ mang nổi thân mình. Còn Toàn tiên sinh có cả tính chuẩn mực, biết
trọng danh tiếng, phải cái trí lực kém cỏi, nhưng cũng là người có danh một thời.
Lời lẽ của Thống rất thô lậu đầy vẻ cuồng ngạo, nghe rất mếch lòng, song bù lại
là sự biểu thị rất chân thành nên cũng không làm người khác cáu giận.
Có một lần, Toàn Tông ngủ đêm lại chỗ Thống, ban đêm cùng nói chuyện, biết Thống
thẳng tính, Tông hỏi: "Tiên sinh biết xem tướng người, xin hỏi trong hai
ta ai sẽ thành đạt hơn?" Thống thản nhiên bảo: "Khuôn mẫu thế tục,
kén chọn nhân tài tiên sinh hơn tôi nhiều lắm, song bàn việc đế vương, vạch định
sách lược, nghị luận mưu kế, xây dựng thể chế cho cả một chỉnh thể tôi hơn hẳn
tiên sinh".
Như trong bài Lưu Bán Dép đã nói:
Lúc Chu Du chết, Thống ở trong đám người hộ tống linh cữu về Giang Đông có gặp
Lỗ Túc, được Túc có ý trọng dụng mới giới thiệu lên Quyền, song khi ra mắt, Thống
nói năng đại ngôn đầy vẻ cuồng ngạo khiến Quyền đang lúc buồn bực rất có vẻ
không ưa nên quyết làm ngơ chẳng thèm trọng dụng. Thống buồn rầu định trở về
quê quán, lại gặp Gia Cát cũng sang viếng tang Chu Du ở đó. Hai bên vốn trước
có quen biết, xa cách lâu ngày nay lại gặp nhau nên rất đỗi vui mừng. Túc lại
đem chuyện Thống nói với Gia Cát, lúc ấy Gia Cát đang bận bịu nhiều việc bàn bạc
với Lỗ Túc nên chỉ viết vội một lá thư tiến cử Thống với Bị và khuyên Thống về
với họ Lưu.
Thống trở về Công An, gặp Lưu Bị, cũng không nói có thư của Lượng, chỉ nói hàm
hồ rằng được Túc giới thiệu đến. Hai bên nói chuyện một lát, Bị bổ nhiệm Thống làm chức huyện lệnh huyện Lai Dương.
Trương Chiêu: Trong hàng ngũ văn quan xứ Giang Đông, Trương Chiêu là người nổi tiếng hơn cả, ông ta luôn được nhắc đến như một mưu thần rất quan trọng. Trương Chiêu tự là Tử Bố, người Bành Thành xứ Giang Đông, học vấn rất quảng bác, có tài cán, đặc biệt trung thành, có năng lực hành chính rất cao, cá tính rắn rỏi, ưa nói thẳng. Chiêu theo về với Tôn Sách từ năm Kiến An thứ 6, giúp được nhiều kế sách hay, được Sách rất tin dùng. Trong các mưu thần Giang Đông, người Chiêu rất không ưa là … Lỗ Túc. Khi Sách mới mất, ba quân xao động, tình hình chính trị khá nguy nan, nhờ sự giúp đỡ nội chính của Trương Chiêu mà Tôn Quyền dành được sự tin cậy của ba quân, mau chóng ổn định tình hình. Quyền rất kính trọng Chiêu, lấy lễ thầy trò đối đãi.
Triệu Vân tự là Tử Long người vùng Thường Sơn, là một vị
tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là
người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế
đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng
của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.
Viên Thiệu là một người nổi
lên hàng đầu trong đám quần hùng đời Hán mạt (trước khi trận chiến Quan độ nổi
tiếng xảy ra). Tổ phụ Viên Thiệu là Viên An (giữ chức Tư đồ), con Viên An là
Viên Sưởng (giữ chức Tư không), và Viên Kinh (Thái thú Thục Quận), con Viên
Kinh là Viên Thang (Thái uý), con Viên Thang là Viên Phùng, Viên Khôi (đều làm
đến chức Tam không). Vậy là 4 đời nhà Thiệu làm đến chức Tam Công, môn sinh,
thân thích làm quan đầy triều.
Viên Thiệu là cháu ruột Viên Thang cũng nổi tiếng là tuấn kiệt nên được rất
đông kẻ sỹ theo giúp, danh tiếng nổi như cồn. Do xuất thân từ một gia tộc danh
tiếng nên đường sĩ đồ của Viên Thiệu không phải chịu cảnh long đong như Tào
Tháo. Vừa bước chân vào chốn quan trường được làm ở phủ Đại tướng, sau thăng
làm Ngự sử, sau nữa lại được thăng làm Tư lệ hiệu uý (chỉ huy quân cấm vệ kinh
thành).
Khi Đổng Trác đoạt quyền chính, Thiệu bỏ quan chạy về Ký châu, được tôn làm
minh chủ đạo quân Quan Đông chống nhau với Đổng Trác. Sau sự kiện đó, Thiệu
cướp Ký Châu của Hàn Phức, đánh bại Điền Khải ở Thanh Châu, diệt Công Tôn Toản
ở Hoa Bắc, xâm lấn Kinh Châu bành trướng thế lực khắp bốn châu Ký, Thanh, U,
Tinh. Sau đó dồn binh ở Lê Dương và Quan Độ quyết một trận thư hùng cùng Tào
Tháo.
Trong chiến dịch Quan độ, Thiệu đã đối địch với một tay quân sự hàng đầu lúc đó
là Tào Tháo ...
Tại trận chiến Quan Độ, Tháo dù binh lực yếu hơn Thiệu rất nhiều, nhưng dằng
dai đóng quân không chiến, cố thủ ở cửa ngõ Hứa Đô với Thiệu suốt 4 tháng ròng
rã, cuối cùng vận dụng sâu sắc trí tuệ đánh bại đội quân to lớn của họ Viên, hai
năm sau đó lại dùng mưu mẹo gian trá chia rẽ các cánh quân của họ Viên làm suy
yếu thực lực của đối thủ và dần dần tiêu diệt sạch, thống nhất hơn một nửa
giang sơn Trung Quốc lúc ấy (chiếm giữ 7/13 châu là Ký, Thanh, U, Tinh, Cổn,
Dự, Từ), độc chiếm ngôi bá chủ quần hùng.
Cuôc đời Thiệu kiểu “tiền kiết, hậu hung”. Ngay từ lúc xuất hiện Viên Thiệu đã
tỏ ra có khí chất anh hùng, hơn hẳn Tào Tháo và Lưu Bị.
Còn nhớ, lúc đại tướng quân Hà Tiến định giết bọn hoạn quan, chính Viên Thiệu
là người hưởng ứng tích cực nhất. Rồi sau đó Hà Tiết bị hoạn quan giết, cũng
chính là Viên dẫn quân vào cung, giết sạch bọn hoạn này.
Về sau đường công danh của họ Viên cũng hơn hẳn Tháo, binh lực cũng hơn hẳn,
nhưng sở dĩ Viên thua Tháo bởi Viên không biết cách dùng người, trận Quan Độ
nếu Thiệu nghe lời Thơ Thọ và Hứa Nhu thì làm sao đến nỗi phải thân bại danh
liệt? Hơn nữa em của Viên Thiệu là Viên Thuật dù cũng tự tạo dựng cho mình được
một cơ ngơi kha khá nhưng quá bất tài và thiển cận. Giá lúc ấy, với lực lượng
mạnh như thế, hai anh em Thiệu-Thuật đoàn kết nhau hẳn làm chủ được thiên hạ
rồi.
Thời này tục tránh dùng tên chánh (kỵ húy) bậc trên như Vua, Quan, Thầy, Ông Bà, Cha Mẹ nên thường đặt thêm tên tự. “Nhập gia vấn húy” là vào nhà phải biết các tên húy ông bà, cha mẹ chủ nhà để tránh phạm tới. Có nhiều cách đặt tên tự, nhưng nói chung hễ nói đến tên tự sẽ suy ra tên chánh hay ngược lại “vấn danh tất tri kỳ tự, vấn tự tất tri kỳ danh”. Gia-Cát Lượng tự là Khổng Minh vì Lượng hay Minh đều là sáng; Quan Vũ tự Vân Trường vì khi nói đến Vũ phải liên tưởng đến Vân; Triệu Vân tự Tử Long vì Vân là mây hợp với Long là rồng, Chu Du tự Công Cẩn, Gia-Cát Cẩn tự là Tử Du vì Du và Cẩn đều là tên lọai ngọc quí…Giống như ở nước ta: Hoa thì gọi là Bông; Phúc thì gọi thành Phước; thờ Phụng thì nói là thờ Phượng..vv
Đại loại vậy…
VietHoa (còn tiếp)
- 16/01/2014 23:38 - Bình tam Quốc bài 14: Giời sinh Du -Giời sinh Lượng
- 16/01/2014 13:27 - Bình Tam Quốc bài 13: trận xích bích Tào-tôn-Lưu (tiếp theo)
- 15/01/2014 13:59 - bình tam Quốc bài 12: Trận Xích Bích và bình về Tào –Tôn - Lưu
- 09/01/2014 08:29 - Bình tam quốc bài 11: TRường bản, ông Phi hét phát có tướng tăng xông
- 03/01/2014 23:08 - Bình Tam Quốc 10: Trận Bác Vọng, Tân Dã- Ối Sử Ôi!
- 25/12/2013 03:13 - Bình Tam Quốc bài 8: Điểm danh tướng và mưu sĩ
- 15/12/2013 03:27 - Diễn biến vụ “Hôi Bia” ở Đồng Nai: Chuyện trí trá, a dua...
- 14/12/2013 03:07 - Bình Tam Quốc 6: Gia Cát Khổng Minh.
- 12/12/2013 13:02 - Hai đầu của thế giới phẳng (Truyện Phim)
- 10/12/2013 06:09 - Bình Tam Quốc 5: Họ nhà Tôn ở Đông Ngô